Chuyển đến nội dung chính

HƯỚNG MỚI ĐIỀU TRỊ VẨY NẾN






Mục tiêu điều trị hiện nay

Mục tiêu điều trị bệnh vẩy nến hiện nay chủ yếu dựa vào những điểm chính sau:

- Ngăn cản sự xâm nhập của các tế bào T hoạt hóa từ tế bào nội mô vào thượng bì và bì;

- Ngăn cản quá trình sản xuất cytokine Th1;

- Trực tiếp kháng lại các đáp ứng của cytokine Th1;

Vẩy nến hiện nay vẫn chưa thể chữa khỏi hoàn toàn mà chỉ làm giảm, sạch thương tổn và kéo dài thời gian tái phát. Có nhiều phương pháp điều trị và dựa vào tuổi, phái, dạng lâm sàng, vị trí sang thương cũng như sự lan tỏa của bệnh.

Điều trị tại chỗ thường được sử dụng trong vẩy nến mức độ nhẹ và trung bình. Vẩy nến mức độ trung bình và nặng có thể phải sử dụng quang trị liệu hoặc thuốc hệ thống.

Ngày nay, để hạn chế tác dụng không mong muốn của thuốc cổ điển, một số thuốc sinh học mới đang được áp dụng điều trị vẩy nến với các cơ chế như tác động đến tế bào T hoặc tế bào trình diện kháng nguyên hay tác động đến các cytokin như một số thuốc sau: Alefaceft, Infliximab, Tazarotene,..

Alefaceft:

Alefaceft là một protein tái kết hợp, bao gồm đoạn tận cùng IFA-3 (kháng nguyên liên quan chức năng bạch cầu) và đoạn Fc của IgGI của người. Thuốc này được Cơ Quan Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) công nhận trong điều trị vẩy nến mảng trung bình và nặng vào tháng 1/2003.

Alefaceft ngăn chặn sự tương tác giữa LFA-3 (kháng nguyên liên quan chức năng bạch cầu) nằm trên tế bào nhận diện kháng nguyên và CD2 nằm trên tế bào T bằng cách ức chế cạnh tranh. Điều này giúp ngăn cản sự dẫn truyền các tín hiệu đồng kích thích giữa tế bào nhận diện kháng nguyên và tế bào T.Alefaceft còn có tác dụng ức chế miễn dịch. Alefaceft ức chế sự tăng sinh hoạt hóa của tế bào T nhớ bằng cách ức chế sự tương tác giữa LFA-3 và CD2, đồng thời gây sụt giảm lượng tế bào T qua mối liên kết giữa tế bào T và tế bào killer tự nhiên.

Alefaceft có hiệu quả trong điều trị vẩy nến trung bình đến nặng (> 10% diện tích bề mặt cơ thể). Liều trung bình là 15 mg/tuần (tiêm bắp) trong 12 tuần. Có thể điều trị đợt 2 nhưng thời gian giữa 2 đợt tối thiểu là 12 tuần.

Bệnh nhân cần được đếm lượng CD4 trước khi điều trị và mỗi tuần trong lúc điều trị. Nếu CD4 < 250 tế bào/mL, thuốc phải được ngưng cho đến khi CD4>250 tế bào/mL. Nếu CD4 < 250 tế bào/mL liên tục trong 4 tuần, alefaceft phải được ngưng lâu dài.

Không có tác dụng phụ nghiêm trọng cũng như nhiễm trùng cơ hội hay nhiễm độc cơ quan được báo cáo trong các nghiên cứu.

Thuốc thường được dung nạp tốt, tác dụng phụ thường gặp nhất là hội chứng giống cúm, nhức đầu, lạnh run, sốt, buồn nôn.

Infliximab

Infliximab là một kháng thể đơn nhân chuột-người gắn kết và ức chế hoạt động của TNF-a. Thuốc này được công nhận trong điều trị viêm khớp dạng thấp và bệnh Crohn. Giống như các thuốc kháng TNF-a khác. Infliximab cũng có hiệu quả trong điều trị vẩy nến và viêm khớp vẩy nến. Liều thường sử dụng từ 5-10 mg/kg/tuần (tiêm tĩnh mạch). Các tác dụng phụ không mong muốn gồm nhiễm trùng, nhức đầu, chóng mặt, đỏ bừng, ảnh hưởng tiêu hóa, chức năng gan bất thường và mệt. Infliximab gây ly giải tế bào qua trung gian bổ thể nên xét nghiệm IDR cần được thực hiện ở tất cả bệnh nhân điều trị bằng thuốc này.

Adalimunab

Adalimunab là một kháng thể đơn clon IgG1 người trực tiếp kháng lại TNF-1 ngăn chặn sự tương tác của các thụ thể bề mặt tế bào P55 và P75. Adalimunab còn gây ly giải tế bào với sự hiện diện của bổ thể. Thuốc này được FDA công nhận trong điều trị viêm khớp dạng thấp vào tháng 12/2002.

Liều của Adalimunab trong điều trị viêm khớp dạng thấp ở người lớn là 40 mg, tiêm dưới da, cách tuần. Giống như infliximab, những bệnh nhân điều trị với adalimunab nên được xét nghiệm IDR. Adalimunab có thể sử dụng một mình hoặc kết hợp với methotrexate trong điều trị viêm khớp dạng thấp. Hiện nay, hiệu quả của thuốc này trong điều trị vẩy nến và viêm khớp vẩy nến còn đang được nghiên cứu.

Tazarotene

Tazarotene là một retinoid, gần đây được công nhận trong điều trị vẩy nến mảng với dạng uống. Tazarotene chuyển hóa thành chất hoạt động, acid tazarotenic và có thời gian bán hủy từ 7 – 12 giờ. Vì vậy, tazarotene có thể là thuốc thay thế an toàn trong điều trị vẩy nến bằng retinoid hệ thống đối với những phụ nữ ở tuổi sinh đẻ.

Ngoài ra, các sản phẩm thực phẩm chức năng đang đóng vai trò rất quan trọng trong hỗ trợ điều trị vẩy nến, giúp kiểm soát tốt các triệu chứng của bệnh đồng thời giúp tăng cường sức khỏe miễn dịch, thanh lọc cơ thể, chống lại các các tác dụng không mong muốn của các thuốc độc sử dụng trong điều trị vẩy nến. Đặc biệt thực phẩm chức năng càng có ý nghĩa quan trọng đối với một bệnh mạn tính, kéo dài như bệnh vẩy nến, việc sử dụng duy trì thực phẩm chức năng mà trong đó có sản phẩm đi đầu là sản phẩm Kim Miễn Khang giúp tình trạng của bệnh nhân sẽ được cải thiện tốt và tránh tái phát trở lại mà không hề có tác dụng phụ.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BỆNH VẨY NẾN CÓ BỊ LÂY KHÔNG ?

Ai dễ mắc, có di truyền? Bệnh vảy nến biểu hiện trên da bằng các mảng đỏ có giới hạn rõ và đóng vảy. Khi đè lên thì màu đỏ này biến mất. Các mảng đỏ từ vài cm đến hàng chục cm, có phủ vảy màu trắng đục mà khi cạo ra thì nó rớt vụn giống như sáp đèn cầy. Các thương tổn này được phân bổ đối xứng ở rìa chân tóc, da đầu, cùi chỏ, đầu gối, vùng xương cụt. Bệnh không đau, có thể có ngứa với mức độ ít nhiều tùy theo từng người >> B ệnh v ẩy n ến c ó b ị l ây kh ông ? Bệnh vẩy nến Trong trường hợp nặng, bệnh có thể gây hư móng, đau khớp, biến dạng khớp, nổi mủ từng vùng hoặc toàn thân và làm cả người bị đỏ da không hồi phục. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi (từ trẻ sơ sinh đến các cụ già với tỷ lệ nam và nữ ngang nhau). Bệnh này có tính di truyền, nếu trong gia đình chỉ có hoặc cha hoặc mẹ bị thì khoảng 8% con sẽ mắc bệnh, còn nếu cả cha và mẹ cùng bị vảy nến thì tần suất các con mắc bệnh là 41%. Bệnh không lây, nhưng chữa không hết Yếu tố miễn dịch được cho là nguyên nh...

KINH NGHIỆM CỦA NGƯỜI TỪNG CHỮA VẨY NẾN

Phương thuốc quý chữa vẩy nến ,á sừng cần được lưu giữ Sau nhiều đêm suy nghĩ trăn trở tôi đi đến một quyết định quan trọng là kể lại hành trình đi chữa vẩy nến và cơ duyên đến với bài thuốc cổ phương thần hiệu của dòng họ Nguyễn.Nghĩ lại những ngày tháng khó khăn cực nhọc trên hành trình chữa bệnh tôi quyết định vượt qua tất cả những lời đàm tiếu dị nghị để đem đến cho mọi người một cơ hội chữa khỏi căn bệnh quái gở này. Viện da liễu Trung ương - nơi tôi khởi đầu hành trình chữa bệnh  Năm 25 tuổi sau khi sinh cháu thứ nhất tôi phát hiện trên da mình có nhiều hiện tượng lạ.Những đốm màu nâu nhạt cứ dần xuất hiện trên da chân,tay,bụng và lưng kèm theo đó là cảm giác hơi ngứa.Nghĩ mình vừa trải qua thời kì sinh nở do nội tiết thay đổi nên việc xuất hiện một vài hiện tượng trên da cũng là chuyện bình thường.Tình hình có vẻ không như tôi suy nghĩ,những vết màu nâu nhạt này mọc càng dầy hơn và nhanh hơn với màu trở nên hồng hơn khiến cho tôi không thể không lo ...

BỆNH VẨY NẾN THƯỜNG LÀ NHỮNG LỨA TUỔI CÒN RẤT TRẺ

Mặc dù bệnh vẩy nến hiếm khi phát triển ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, nhưng 1/3 số người mắc bệnh trước khi 18 tuổi. Do đó, các bậc phụ huynh cần biết cách chăm sóc trẻ bị bệnh vảy nến. >>Bệnh vẩy nến Những người mắc bệnh vẩy nến khi còn trẻ đa số là do yếu tố tiền sử gia đình có người mắc bệnh. Hình thức phổ biến nhất của bệnh ở trẻ em các mảng bám trên các vùng khuỷu tay, đầu gối và lưng dưới, da đầu. Bệnh cũng có thể phát triển ở các khu vực nhạy cảm hơn như mặt, nách, háng… Bệnh vẩy nến ở trẻ em có xu hướng ít bong tróc hơn ở người lớn, và có xu hướng màu đỏ tươi và bóng. Bệnh vảy nến ở trẻ em Bệnh vảy nến guttate phổ biến ở trẻ em và thanh thiếu nhiên. Nguyên nhân của bệnh là do vi khuẩn streptococcus, và thường xảy ra sau khi bị nhiễm trùng cổ hong. Bệnh vảy nến guttate giống như một phát ban nhỏ, vảy có đường kính khoảng 1 cm, xuất hiện trên thân, chân tay và da đầu. Bệnh vẩy nến gây ra nhiều bất tiện cho sinh hoạt của người bệnh. Điều trị bệnh vảy nến ở trẻ em Bệnh vảy nến có...